VIÊM GAN SIEU VI B | |||
ZEFFIX (LAMIVUDINE) thuốc uống
duy nhất đặc trị viêm gan siêu vi B - PHÁC ÐỒ HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG ZEFFIX
CHẨN ÐOÁN VIÊM GAN SIÊU VI B
MÃN TÍNH:
Hậu quả có thể có của nhiễm
virus viêm gan B:
Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm vius viêm
gan siêu vi B trở thành bệnh viêm gan siêu vi B mãn tính thay đổi tuỳ theo tuổi
mắc phải vius (1). Nhiễm virus chu sinh thường trở thành mãn tính, nhưng nhiễm
virus sau 2 tuổi thường tiến triển cấp tính, ngoại trừ những bệnh nhân suy giảm
miễn dịch như ghép cơ quan, nhiễm HIV . những bệnh nhân này có nguy cơ nhiễm
virus mãn tính cao.
Các bệnh lý kèm theo nhiễm
virus viêm gan siêu vi B (HBV) (2)
Làm thế nào để chẩn đoán nhiễm
virus viêm gan B?
Xét nghiệm huyết thanh học giúp
chẩn đoán nhiễm virus viên gan B (3)
Xét nghiệm
|
Giải thích trong trường hợp có trị số tăng cao
|
Viêm gan viêu vi B mãn tính có sao chép virus
|
Viêm gan siêu vi B mãn tính trong giai đoạn phục hồi
**
|
Nhiễm virus có chủng đột biến pre - core
|
HgsA*
|
Nhiễm HBV mãn tính
|
+
|
+
|
+
|
HbeAg
|
Sao chép virus
|
+
|
-
|
-
|
HBV DNA
|
Sao chép virus
|
+
|
-
|
+
|
Anti - HBe
|
Kết thúc sao chép virus
|
-
|
+
|
+
|
* + dương tính trong ít nhất 6
tháng -> chẩn đoán nhiễm virus viêm gan B mãn tính.
** Ðáp ứng huyết thanh HbeAg
(HbeAg seroconversion), hay còn gọi là chuyển phản ứng huyết thanh.
Làm thế nào để đánh giá tình
trạng bệnh gan?
Mức độ viêm - hoại tử tế bào
gan có thể được đánh giá một cách gián tiếp bằng cách đo nồng độ men alamine
transaminase (ALT) hoặc aspartate transaminase (AST) trong máu, hoặc đánh giá
một cách trực tiếp qua sinh thiết gan (3). Việc đánh giá tình trạng mô học của
gan giúp ta biết được mức độ xơ hoá và xơ gan. Tình trạng xơ gan cũng có thể
được đánh giá qua siêu âm gan.
Chức năng gan được đánh giá qua
nhừng xét nghiệm sau:
·
? Bilirubine máu
·
? Albumine và
phosphatase kiềm/máu
·
? Thời gian
prothrombin
ÐIỀU TRỊ VIÊM GAN SIÊU VI B MÃN
TÍNH
Những bệnh nhân nào cần được
điều trị?
Bệnh nhân có viêm gan siêu vi B
mãn tính với những tiêu chuẩn sau đây cần được điều trị:
- Có bằng chứng của bệnh gan
- Có nguy cơ tiến triển (có
bằng chứng sao chép virus)
- Nhiễm HBV với biểu hiện ngoài
gan (hội chứng thận hư, bệnh viêm mạch máu)
- Bệnh sử có những đợt viêm gan
bùng phát
- Bệnh gan tiến triển (bênh gan
mất bù hoặc xơ gan)
- Nhiễm HBV sau khi ghép gan)
Mục đích điều trị gan siêu vi B
mãn tính:
Những mục đích điều trị viêm
gan siêu vi B mãn tính còn bù gồm:
- Cải thiện tình trạng viêm
hoại tử tế bào gan, ngăn ngừa tiến triển bệnh gan. Nhiều bênh nhân phát triển
biến chứng hoặc tử vong vì hậu quả của bệnh gan do nhiễm virus viêm gan siêu vi
B mãn tính, vì vậy, tầm quan trọng hàng đầu trong điều trị là cải thiện hậu quả
của bệnh gan.
- Ðạt được kiểm soát về mặt
miễn dịch thông qua phản ứng huyết thanh HbeAg và / hoặc HBsAg. Ðối với những
bệnh nhân có virus sao chép liên tục thì việc điều trị sẽ là phương tiện kiểm
soát được bệnh gan mặc dù điều này chỉ đạt được ở một thiểu số bệnh nhân với
điều trị hiện nay.
- Ức chế sao chép virus. Bởi vì
bệnh gan xảy ra là do hậu quả của sao chép virus trong gan, vì vậy ức chế sao
chép virus sẽ đem lại cơ hội cải thiện bệnh gan, kiểm soát miễn dịch và có thể
giảm nguy cơ lây truyền.
- Cải thiện chất lượng cuộc
sống qua việc giảm các triệu chứng, đặc biệt đối với những bệnh nhân có biểu
hiện ngoài gan.
Các phương pháp điều trị viêm
gan siêu vi B mãn tính hiện nay:
Hiện nay thuốc điều trị đang
được sử dụng rộng rãi trong viêm gan siêu vi B mãn tính là alpha - interferon (
α-IFN) được trình bày dưới dạng sản phẩm tái tổ hợp (Intron A và Roferon) hoặc
Interferon từ nguyên bào Lympho (Wellferon). Những loại thuốc khác bao gồm
Thymosin chỉ có ở vài quốc gia (4), các thuốc đông y đặc biệt sử dụng rộng rãi
ở Trung Hoa.
Lamivudine (ZEFFIX) là một điều
trị mới, có mặt tại nhiều quốc gia và sẽ được sử dụng tại nhiều nước nữa trong
hai thập kỷ tới.
Những yếu tố xem xét việc chọn
lựa thuốc điều trị:
Những yếu tố cần được xem xét
kihi quyết định chọn lựa thuốc điều trị cho bệnh nhân, những yếu tố này gồm:
1. Tình trạng
thuận tiện của việc điều trị.
Lamivudine được dùng qua đường uống chỉ với 1 viên/ ngày, trong khi alpha -
interferon cần phải tiêm ít nhất 3 lần/ tuần trong suốt thời gian điều trị.
2. Ðặc điểm
của bệnh nhân. Có thể tác động lên
kết quả điều trị (5):
- Phái tính: Nam và nữ đều
nđáp ứng điều trị với Lamivudine tương đương nhau, trong khi alpha-interferon
thường hiệu quả hơn trên bệnh nhân nữ.
- Tuổi mắc bệnh: Nhiễm bệnh ở
tuổi trưởng thành (lây nhiễm theo chiều ngang) hoặc lây nhiễm chu sinh (lây
nhiễm theo chiều dọc) đều đáp ứng tốt với điều trị Lamivudine, trong khi
alpha-interferon cho kết quả tốt hơn (xét về phản ứng chuyển huyết thanh HBeAg)
trên bệnh nhân nhiễm vi rút ở tuổi trưởng thành có men ALT tăng cao.
- Chủng tộc: Ðáp ứng điều trị
với Lamivudine là như nhau trên trên mọi chủng tộc, trong khi đó người châu Á
thường đáp ứng điều trị với alpha-interferon kém hơn so với người phương tây.
- Nhiễm đồng thời HIV:
Alpha-interferon bị chống chỉ định trên bệnh nhân suy giảm miễn dịch, trong khi
Lamivudine với liều cao hơn (150mg x 2lần / ngày) được chỉ định sử dụng cho
bệnh nhân có nhiễm HIV đồng thời với HBV.
- Tình trạng HBeAg ban đầu - Cả
hai tình trạng HBeAg ban đầu dương tính hoặc âm tính (biến chủng pre-core) đều
đáp ứng với điều trị Lamivudine, trong khi alpha-interferon cho đáp ứng tốt hơn
với bệnh nhân HBeAg (+).
- Nồng độ men ALT ban đầu - Ở
những bệnh nhân có men ALT ban đầu tăng cao thì điều trị Lamivudine và
anpha-interferon đều cho tỷ lệ chuyển phản ứng huyết thanh HBeAg cao hơn so với
những bệnh nhân có men ALT ban đầu bình thường. Tuy nhiên, Lamivudine làm cải
thiện mô học của gan không phụ thuộc vào men ALT ban đầu.
3. Tác dụng
phụ của thuốc: Tác dụng phụ của
Lamivudine được ghi nhận có tần xuất tương đương giả dược, trong khi điều trị
alpha-interferon thường có những triệu chứng giả củm và nhiều tác dụng không
mong muốn khác.
4. Chống chỉ
định với điều trị: Chống chỉ định
của alpha-interferon gồm:
- Xơ gan hoặc bệnh gan mất bù.
- Mẫn cảm với bất kỳ thành phần
nào của chế phẩm.
- Có bệnh tim nặng.
- Suy thận hoặc suy gan nặng.
- Ðộng kinh.
- Ðiều trị thuốc ức chế miễn dịch
gần đây (ngoại trừ corticoide ngắn hạn).
- Bệnh sử có bệnh tự miễn.
Trái lại, chống chỉ định đốivới
Lamivudine chỉ gồm những bệnh nhân bị mẫn cảm với thành phần của chế phẩm.
5. Chi phí
điều trị: Chi phí điều trị trực
tiếp và những chi phí cho việc chăm sóc lâu dài cũng cần được cân nhắc khi chọn
lựa thuốc cho bệnh nhân. (6).
CHỌN LỌC BỆNH NHÂN CHO ÐIỀU TRỊ
ZEFFIX (LAMIVUDINE)
Hiệu quả lâm sàng của
Lamivudine đã được đánh giá trên nhóm bệnh nhân nào?
Nhiều thử nghiệm lâm sàng ở
giai đoạn III đã được thực hiện để đánh giá hiệu quả lâm sàng của Lamivudine
trên những bệnh nhân viêm gan siêu vị B mãn tính có bằng chứng sao chiép virus
(7-10). Những bệnh nhân nào bao gồm những người có HBeAg (+) chưa từng điều trị
hoặc đã thất bại alpha-interferon (11) và những bệnh nhân có mang biến chủng
pre-core (12). Lamivudine cũng được đánh giá trong những thủ nghiệm không kiểm
soát trên những bệnh nhân viêm gan siêu vi B mãn tính với bệnh gan mất bù (13),
trước và sau khi ghép gan (14), nhiễm đồng thời HIV, và những bệnh với thời
gian theo dõi là 12 tuần (15).
Ngoài ra cũng có chương trình
sử dụng Lamivudine cho những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch do điều trị (ghép
thận, hoá trị liệu) và những bệnh nhân có biểu hiện ngoài gan.
Hiệu quả của Lamivudine trên
những bệnh nhân nêu trên?
Trên nhóm bệnh nhân viêm gan
siêu vi B mãn tính có bằng chứng sao chép virus và có bệnh lý gan, Lamivudine
cho hiệu quả đáng kể như sau:
- Ức chế HBV DNA huyết thanh.
- Tăng tỷ lệ biến mất HBeAg và
chuyển phản ứng huyết thanh HBeAg.
- Cải thiện tình trạng viêm
hoại tử tế bào gan.
- Giảm tiến triển xơ hóa.
- Giảm tiến triển đến xơ gan.
- Bình thường hoá men ALT.
Những số liệu còn cho thấy sự
cải thiện mô học gan không phụ thuộc vào nồng độ HBV DNA hoặc ALT ban đầu. Tỷ
lệ chuyển phản ứng huyết thanh HBeAg cao hơn ở những bệnh nhân có men ALT ban
đầu tăng cao. Không có sự khác biệt về tỷ lệ chuyển phản ứng huyết thanh HBeAg
giữa các nhóm chủng tộc.
Chỉ định điều trị Lamivudine:
Dựa trên những cơ sở khoa học
sẵn có, Lamivudine được chỉ định ở những bệnh nhân nhiễm virus viêm gan B mãn
tính (có HbsAg (+) hơn 6 tháng), có bằng chứng sao chép virus (HBeAg (+) và /
hoặc HBV DNA (+) và có biểu hiện bệnh lý gan (tăng men ALT và / hoặc có bằng
chứng mô học) (Xin xem sơ đồ 1).
Ngoài ra, những bệnh nhân có
HBeAg(+) có biểu hiện bệnh lý gan cần được khảo sát thêm để xác định có mang
biến chủng pre-core hay không, những bệnh nhân này cũng có chỉ định điều trị
Lamivudine (Xin xem sơ đồ 2).
Hơn nữa, những số liệu từ những
thủ nghiệm lâm sàng không kiểm soát cũng hỗ trợ cho việc sử dụng Lamivudine
trên bệnh nhân viêm gan siêu vi B mãn tính có bệnh gan mất bù hoặc bệnh nhân
ghép gan. Cũng có thể xem xét điều trị Lamivudine cho những bệnh nhân viêm gan
siêu vi B mãn tính có suy giảm miễn dịch và những bệnh nhân có biểu hiện ngoài
gan.
QUẢN LÝ BỆNH NHÂN ÐIỀU TRỊ
ZEFFIX (LAMIVUDINE)
Quản lý bệnh nhân HBeAg:
Việc định thời gian theo dõi
định kỳ tuỳ thuộc vào thói quen thực hành của từng địa phương. Tuy nhiên, đối
với bệnh nhân bệnh gan, nên kiểm tra men ALT mỗi 1-3 tháng, đáp ứng huyết thanh
(HBeAg) mỗi 3-6 tháng sau 6 tháng đầu của điều trị. Kiểm tra men ALT hang tháng
trong vòng 3 tháng đầu và sau đó một lần mỗi 3 tháng có thể giúp bệnh nhân tuân
thủ điều trị. Khi men ALT đã trở về bình thường mà HBeAg vẫn còn dương tính thì
vẫn tiếp tục điều trị Lamivudine (Xin xem sơ đồ 3).
Quản lý bệnh nhân HBeAg (-) (có
biến chúng pre-core):
Ðối với những bệnh nhân này,
HBeAg không thể dùng để theo dõi kết quả điều trị. Tuy nhiên, có thể sử dụng
các xét nghiệm khác để theo dõi như là: men ALT, HBV DNA nếu có. (xin xem sơ đồ
4).
Xử lý bệnh nhân có men ALT tăng
trong thời gina điều trị Ziffix:
Nếu men ALT tăng cao đến mức lo
ngại về mặt lâm sàng thì điều quan trọng là phải xác định xem bệnh nhân có uống
Lamivudine theo đúng chỉ dẫn của thầy thuốc hay không (1 viên 100mg 1
lần/ngày).
Nếu đã xác nhận bệnh nhân có
tuân thủ điều trị rồi thì cần xem xét đến thời gian điều trị. Biến chủng YMDD
thường xuất hiện ở bệnh nhân điều trị Lamivudine trên 6 tháng, vì vậy, men ALT
tăng lên trước 6 tháng có nghĩa là do những nguyên nhân khác, như là uống rượu,
nhiễm thêm virus viêm gan A. gần được khảo sát thêm.
Nếu bệnh nhân điều trị
Lamivudine trên 6 tháng, có men gan tăng đáng kể nhưng không kéo dài có thể do
phản ứng chuyển huyết thanh HBeAg sắp xảy ra. Trong trường hợp men ALT tăng
không đáng kể như kéo dài thì có thể do xuất hiện biến chủng YMDD của HBV (16).
Trên lâm sàng có thể hướng tới biến chủng YMDD khi men ALT tăng trên 1.3 lần so
với giá trị trên của bình thường, đồng thời phát hiện có HBV DNA trong huyết
thanh (chẩn đoán bằng thử nghiệm lai ghép trong môi trường lỏng - solution
hybridisation assay), tuy nhiên, những nguyên nhân khác làm tăng men gan cũng
cần được loại trừ. Hướng xử trí sau đây phụ thuộc vào mức độ và thời gina tăng
men ALT:
? Nếu men ALT tăng kéo dài đến
mức bằng hoặc cao hơn trước khi điều trị có nghĩa là không đạt được kiểm soát
lâm sàng, như vậy cần xem xét đến việc ngưng Lamivudine, hoặc thêm một thuốc
thứ hai như alpha-interferon, hoặc chuyển sang thuốc khác, mặc dù không có bằng
chứng hỗ trựo cho hai hướng hợp xử trí sau.
? Nếu men gan ALT tăng nhưng
dưới mức trước khi điều trị có nghĩa là nên tiếp tục điều trị Lamivudine để
ngăn ngằ sự xuất hiện của chủng virus hoang dại. Vài bệnh nhân khi xuất hiện
biến chủng YMDD thì kèm theo tăng men ALT (và xuất hiện tại HBV DNA trong huyết
thanh), nhưng sau đó men gan dần dần trở về bình thường trong vòng 4-6 tháng
sau khi tiếp tục điều trị Lamivudine (xin xem sơ đồ 5). Những số liệu theo dõi
lâu dài, mặc dù còn hạn chế đã cho thấy những bệnh nhân này vẫn đạt được phản
ứng chuyển huyết thanh HBeAg và / hoặc cải thiện mô học gan khi tiếp tục điều
trị Lamivudine dù có xuất hiện biến chủng YMDD. Tuy nhiên, người thầy thuốc vẫn
có thể chọn lựa việc ngưng điều trị Lamivudine trong trường hợp xuất hiện biến
chủng YMDD mặc dù hiện nay chưa có những số liệu về hậu quả lâu dài của việc
ngưng điều trị này.
(Xin xem sơ đồ 5)
TIÊU CHUẨN NGƯNG ÐIỀU TRỊ
ZEFFIX TM (LAMIVUDINE)
Khi nào ngưng điều trị
Lamivudine?
Chuẩn phản ứng huyết thanh
HBeAg đạt được trong thời gian điều trị Lamivudine thường bền vững sau khi
ngưng điều trị (17), vì vậy, khi phản ứng chuyển huyết thanh đã được xác nhận,
đặc biệt khi không thực hiện được xét nghiệm HBV DNA, thì có thể ngưng điều trị
Lamivudine. Khi HBeAg mất trong huyết thanh mà chưa xuất hiện kháng thể
anti-Hbe thì cũng có thể xem xét ngưng điều trị Lamivudine mặc dù số liệu theo
dõi lâu dài còn hạn chế. Những lý do khác để ngưng Lamivudine gồm: xuất hiện
phản ứng phụ (hiếm gặp), bệnh nhân mong muốn có thai, không đáp ứng lâm sàng.
Thời gian điều trị Lamivudine
cần được xác định cho từng bệnh nhân trên cơ sở những kết quả sau:
·
? Phản ứng chuyển
huyết thanh HBeAg được xác nhận - ngưng điều trị.
·
? Nghi ngờ nhiễm
biến chủng YMDD - hoặc tiếp tục điều trị và theo dõi men ALT đều đặn, hoặc
ngưng điều trị trong 3 tháng để chủng virus hoang dại xuất hiễn lại, hoặc thêm
thuốc thứ hai, hoặc thay thế bằng thuốc khác.
·
? HBeAg vẫn còn
dương tính, men ALT trở về bình thường và mất HBV DNA huyết thanh - tiếp tục
điều trị.
Bệnh nhân có cần được theo dõi
sau khi ngưng điều trị Lamivudine không?
Tăng men ALT có thể xảy ra
khoảng 25% trường hợp sau khi ngưng Lamivudine. Ðiều này thường xảy ra trong
vòng 4 tháng đầu tiên, có lẽ do chủng virus hoang dại xuất hiện lại, men gan
thường trở về bình thường mà không cần can thiệp điều trị, nhưng có thể xem xét
việc điều trị lại Lamivudine (xin xem sơ đồ 6)
SƠ ÐỒ TÓM TẮT CÁCH SỬ DỤNG
ZEFFIX
SƠ ÐỒ 1: CHỌN
LỌC BỆNH
SƠ ÐỒ 2: CHỌN
LỰA BỆNH NHÂN HBsAg (+) VÀ HBeAg (-) CHO ÐIỀU TRỊ ZEFFIX
(Bệnh nhân nghi ngờ mang biến
chủng pre-core)
SƠ ÐỒ 3: THEO
DÕI BỆNH NHÂN TRONG THỜI GIAN ÐIỀU TRỊ ZEFFIX
SƠ ÐỒ 4: THEO DÕI BỆNH NHÂN TRONG THỜI GIAN ÐIỀU TRỊ ZEFFEX
SƠ ÐỒ 4: THEO DÕI BỆNH NHÂN TRONG THỜI GIAN ÐIỀU TRỊ ZEFFEX
(Bệnh nhân mang biến chứng
precore : HBsAg(+), HBeAg (-)
SƠ ÐỒ 5: XỬ TRÍ TRONG TRƯỜNG HỢP MEN GAN TĂNG TRONG THỜI GIAN ÐIỀU TRỊ ZEFFIX
SƠ ÐỒ 6: THEO DÕI BỆNH NHÂN SAU KHI NGƯNG ÐIỀU TRỊ
SƠ ÐỒ 5: XỬ TRÍ TRONG TRƯỜNG HỢP MEN GAN TĂNG TRONG THỜI GIAN ÐIỀU TRỊ ZEFFIX
SƠ ÐỒ 6: THEO DÕI BỆNH NHÂN SAU KHI NGƯNG ÐIỀU TRỊ
THÔNG TIN KÊ TOA ZEFFIX
ZEFFIX TABLETS
Trình bày:
Viên nén màu kem, bao màn, hình
nang, hai mặt lồi, có khắc chữ "GX CG5" ở mỗi mặt. Mỗi viên nén chứa
100mg lamivudine.
Chỉ định điều
trị:
ZEFFIX được chỉ định cho điều
trị những bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên bị viêm gan B mãn tính và có bằng chứng
nhân lên của virus viêm gan B (HBV vơi một hoặc nhiều tình trạng:
·
? Alamine aminotransferase
(ALT) huyết thanh tăng 2 lần so với bình thường
·
? Xơ gan
·
? Bệnh gan mất bù
·
? Bệnh gan đang
viêm - hoại tử thể hiện trên sinh thiết
·
? Tổn thương hệ
miễn dịch (imminocompromise)
·
? Ghép gan
Liều và cách
dùng
Liều dùng đề nghị của ZEFFIX là
100mg, một lần/ngày
Có thể uống ZEFFIX cùng với
thức ăn hoặc không
Chưa thiết lập được thời gian
điều trị tối ưu
Có thể cân nhắc ngừng ZEFFIX
trong trường hợp:
·
? Ðảo ngược huyết
thanh đối với HBeAg và/ hoặc HBsAg được khẳng định ở bênh nhân hệ miễn dịch
bình thường
·
? Bệnh nhân nữ có
thai trong thời gian điều trị
·
? Bệnh nhân có
dấu hiệu không dung nạp ZEFFIX khi đang điều trị
·
? Theo đánh giá
của bác sĩ điều trị, ZEFFIX không có hiệu quả ví dụ nồng độ ALT huyết thanh trở
về giá trị trước khi điều trị, hoặc tình trạng bênh xấu đi thể hiện trên mô học
gan
Nên theo dõi tính tuân thủ của
bệnh nhân khi đang điều trị bằng ZEFFIX, nếu nguiừng ZEFFIX phải theo dõi định
kỳ để phát hiện bằng chứng của viêm gan tái phát (xem phần" Những thận
trọng và chú ý đặc biệt khi sử dụng")
Suy thận:
Nồng độ lamivudine huyết thanh
(AUC) tăng ở bệnh nhân suy thận mức độ từ vừa tới nặng do thanh quản qua thận
giảm xuống. Do đó pơhải giảm liều dùng cho những bệnh nhân có độ thanh thải
creatinine < 50ml/phút
Khi cần dùng liều dưới 100ml,
có thể dùng ZEFFIX dung dịch uống (xem bảng dưới đây)
Thanh thải creatinine ml/phút
|
Liều khởi đầu của ZEFFIXTM dung dịch uống
|
Liều duy trì
một lần/ngày
|
30 tới < 50
|
20ml (100mg)
|
10ml (50mg)
|
15 tới < 30
|
20ml (100mg)
|
5ml(25mg)
|
5 tơid < 15
|
7ml(35mg)
|
3ml(15mg)
|
<5
|
7ml(35mg)
|
2ml(10mg)
|
* Dung dịch ZEFFIX uống chứa
5mg/ml lamivudine
tài liệu hiện có về sử dụng
ZEFFIX ở bệnh nhân đang lọc máu không liên tục (= 4giờ lọc máu, 2,3 lầm mỗi
tuần), cho thấy sau khi giảm liều ban đầu của ZEFFIX để phù hợp với độ thanh
thải creatinine, không cần điều chỉnh liều dùng thêm nữa khi đang lọc máu.
Suy gan
Tài liệu thu được ở bệnh nhân
suy gan, kể cả bệnh gan giai đoạn cuối đang chờ ghép gan, cho thấy dược động
học của lamivudine không bị ảnh hưởng đáng kể bởi rối loạn chức năng gan. Dựa
trên những số liệu này, không cần điều chỉnh liều dùng ở bệnh nhân suy gan nếu
không có suy thận kèm theo.
Chống chỉ định
Chống chỉ định dùng ZEFFIX cho
bệnh nhân có tiền sử quá mẫn cảm với lamivudine hoặc với bất kỳ thành phần nào
của thuốc.
Thận trọng và chú ý đặc biệt
khi sử dụng
Chú ý đặc
biệt: không có chú ý đặc biệt nào
phải lưu ý khi điều trị bằng ZEFFIX.
Trong thời gian điều trị, bệnh
nhân cần được theo dõi thường xuyên bởi một bác sĩ có kinh nghiệm về điều trị
bệnh viêm gan B mãn tính.
Khi bệnh nhân viêm gan siêu vi
B mãn tính ngừng sử dụng lamivudine, một số người có thể có bằng chứng trên lâm
sàng hoặc trên xét nghiệm của viêm gan tái phát, điều này có thể gây hậu quả
nặng hơn nếu bệnh nhân đó bị bệnh gan mất bù.
Nếu ngừng ZEFFIX, bệnh nhân
phải được theo dõi định kỳ trên lâm sàng và đánh giá xét nghiệm huyết thanh
chức năng gan (nồng độ ATL và bilirubine huyết thanh), trong ít nhất 4 tháng để
phát hiện bằng chứng viêm gan tái phát, khi đó bệnh nhân phải được theo dõi
đúng theo chỉ định trên lâm sàn. Ðối với người có bằng chứng viêm gan tái phát
sau điều trị, không có đủ số liệu về lợi ích thu được khi bắt đầu điều trị lại
bằng ZEFFIX.
Nếu bệnh nhân suy thận từ vừa
đến nặng, nồng độ lamivudinen huyết thanh (AUC) tăng do thanh thải qua thận
giảm, do đó phải giảm liều nếu thanh thải creatinine < 50ml/phút (xem phần
Liều và phương pháp dùng)
Ðể điều trị bệnh nhân nhiễm HIV
đồng thời, hiện đang điều trị hoặc có kế hoạch điều trị băng EpivirTM
(lamivudine) hoặc CombivirTM (lamivudine/zidovidine), nên duy trì liều
lamivudine được kê cho chỉ định nhiễm HIV(thường là 150mg, hai lần/ngày)
Không có thông tin về việc lây
truyền virus viêm gan B từ mẹ sang con trong trường hợp bệnh nhân đang mang
thai được điều trị bằng ZEFFIX. Cần tuân theo phương pháp tiêm phòng virus viêm
gan B thông thường đã được khuyến cáo cho trẻ nhũ nhi.
Bênh nhân phải được biết rằng
điều trị bằng ZEFFIX chưa được chứng minh là giảm nguy cơ lây truyền virus viêm
gan B cho người khác và do đó, vẫn phải áp dụng những thận trọng thích hợp.
Tương tác thuốc
Khả năng tương tác chuyển hoá
thấp do chuyển hoá và gắn với protein huyết tương hạn chế và hầu như thải trừ
hoàn toàn qua thận dưới dạng không đổi.
Lamuvidine thải trừ chủ yếu
theo cơ chế bài tiết chủ động cation hữu cơ. Nên xem xét khả năng tương tác với
thuốc kháng dùng đồng thời, đặc biệt khi đường thải trừ chính của những thuốc
này là bài tiết chủ động qua thận thông qua hệ thống vận chuyển cation hữu cơ,
ví dụ trimethoprim. Những thuốc khác (ví dụ ranitidine, cimetidine) chỉ thải
trừ một phần bằng cơ chế này và cho thấy không tương tác với lamivudine.
Những thuốc thải trừ chủ yếu
qua đường hoạt hóa anion hữu cơ, hoặcbởi lọc tiểu cầu thận không chắc có những
tương tác mang ý nghĩa lâm sàng đáng kể với lamivudine.
Khi dùng
trimethoprim/sulphamethoxazole 160mg/800mg làm tăng mức độ tiếp xúc toàn thân
của lamivudine lên khoảng 40%. Lamivudine không ảnh hưởng tới dược động học của
trimethoprim hoặc sulphamethatoxazol. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân không bị suy
thận, không cần điều chỉnh liều lamivudine.
Cmax của zidovudine tăng vừa
phải (28%) khi uống cùng với lamivudine, tuy nhiên mức độ tiếp xúc toàn thân
(AUC) thay đổi không đáng kể. Zidovudine không ảnh hưởng tới dược động học của
lamivudine (xem Ðặc điểm dược động học)
Lamivudine không tương tác dược
động học với alpha-interferon khi uống đồng thời 2 thuốc. Không có tác dụng phụ
nào mang ý nghĩa lâm sàng đáng kể do tương tác gây nên ở bệnh nhân uống ZEFFLIX
đồng thời với thuốc ức chế miễn dịch (ví dụ cyclosporin A). tuy nhiên vẫn chưa
tiến hành những nghiên cứu về tương tác thuốc.
Sử dụng khi mang thai và chi
con bú
Phụ nữ mang
thai:
Chỉ có một số ít tài liệu về
tính an toàn của lamivudine đối với phụ nữ mang thai. Những nghiên cứu trên
người đã khẳng định rằng lamivudine qua được rau thai. Nồng độ lamivudine trong
huyết thanh của trể sơ sinh lúc mới sinh tương tự như huyết tương của mẹ và dây
rốn khi đẻ.
Không thấy bằng chứng thuốc gây
quái thai trong những nghiên cứu sinh sản ở động vật thai, không thấy thuốc ảnh
hưởng đến khả năng sinh sản của con đực và con cái. Lamivudine gây tăng nhẹ tỷ
lệ chết phôi sớm cho thỏ đang mang thai uống, với nồng độ tiếp xúc tương tự như
ở người. Tuy nhiên, không có bằng chứng chết phôi ở chuột cống với nồng độ bằng
khoảng 60 lần so với nồng độ lâm sàng (dựa trên Cmax)
Chỉ cân nhắc việc sử dụng cho
phụ nữ mang thai khi lợi ích thu được cao hơn nguy cơ. Mặc dù kết quả nghiên
cứu trên động vật không phải lúc nào cũng dự đoán được đáp ứng ở người, nhưng
những phát hiện ở thỏ cho thấy nguy cơ có thể mất phôi sớm.
Ðối với bệnh nhân điều trị
ZEFFLIX, mà lại mang thai, phải cân nhắc khả năng viêm gan tái phát khi ngừng
ZEFFLIX (xem Những thận trọng và chú ý đặc biệt khi sử dụng)
Phụ nữ cho con
bú:
Sau khi uống, lamivudine vào
được sữa mẹ với nồng độ tương tự nồng độ trong huyết thanh (trong kghoản 1 - 8
g/ml). Số liệu thu được từ các nghiên cứu trên chuột cống sơ sinh dùng
lamivudine với liều cao hơn nhiều so với nồng độ sữa mẹ cho thấy nồng đô
lamivudine trong sữa mẹ có vẻ như không gây độc cho trẻ.
Tác dụng tới
khả năng lái xe và sử dụng máy móc
Không có nghiên cứu điều tra về
ảnh hưởng của lamivudine tới khả năng lái xe hoặc điều khiển máy móc. Từ đặc
điểm dược lý học của thuốc, cũng không dự đoán được tác hại của thuốc lên những
hoạt động này.
Tác dụng không
mong muốn
Trong nghiến cứu lâm sàng của
bênh nhân viêm gan B mãn tính, ZEFFLIX được dung nạp tốt. Tỷ lệ tác dụng phụ là
tương tự nhau giữa 2 nhóm placebo và nhóm điều trị ZEFFLIX. Tác dụng phụ hay
gặp nhất là mệt mỏi, khó chịu, nhiễm trùng hô hấp, đau đầu, đau và khó chịu ở
bụng, buồn nôn, nôn và ỉa chảy.
Tỷ lệ bất thường xét nghiệm ở
bệnh nhân viêm gan B mãn tính tương tự giữa nhóm placebo và nhóm Zeffix, ngoại
trừ tăng ALT thường xuất hiện sau điều trị Zeffix. Tuy nhiên, trong thử nghiệm
có đối chứng, sau thời gian điều trị bằng Zeffix hoặc placebo, không có sự khác
nhau rõ rệt nào về tăng ALT nghiêm trọng trên lâm sàng, đi kèm với tăng
bilỉubin và / hoặc dấu hiện thiểu năng gan. Mối quan hệ của các trường hơpọ
viêm gan tái phát này với điều trị Zeffix hoặc với bệnh có từ trước là không
chắc chắn (xem phần thận trọng và chú ý đặc biệt khi sử dụng).
Ở bệnh nhân nhiễm HIV, có báo
cáo về viêm tuỵ và bệnh thần kinh ngoại biên (hoặc dị cảm), mặc dù không thiết
lập được mối liên quan rõ ràng với điều trị lamivudine (EpivirTM). Ở bệnh nhân
viêm gan B mãn tính không thấy có sự khác nhau về tỷ lệ xuất hiện những hiện
tượng này giữa bệnh nhân dùng placebo và Zeffix.
Khi dùng phương pháp điều trị
kết hợp bằng chất đồng đẳng nucleoside cho bệnh nhân HIV, có báo cáo về trường
hợp toan lactic, thường đi kèm với to gan và gan nhiễm mỡ mức độ nặng. Ðôi khi
có báo cáo về những tác dụng phụ này ở bệnh nhân viêm gan B kèm theo bệnh gan
mất bù, tuy nhiên không chứng minh được tác dụng phụ này liên quan với Zeffix.
Quá liều
Trong các nghiên cứu cấp tính
trên động vật, lamivudine với liều rất cao không gây bất cứ độc tính nào cho cơ
quan. Có một vài số liệu hạn chế về hậu quả của uống quá liều cấp tính ở người.
Không trường hợp nào tử vong, bệnh nhân đều hội phục. Không có dấu hiệu hoặc
triệu chứng đặc hiệu nào sau những trường hợp quá liều như vậy.
Khi bị quá liều, phải theo dõi
bệnh nhân và áp dụng biện pháp điều trị hỗ trợ thông thường nếu cần. Do
lamivudine có thể thẩm phân được, nên có thể áp dụng lọc máu mặc dù điều này
chưa được nghiên cứu.
Ðặc điểm dược
lực học
Lamivudine là một thuốc chống
virus, có hoạt tính cao đối với virus viêm gan B ở mọi dòng tế bào thử nghiệm
và ở những động vật thí nghiệm bị nhiễm.
Lamivudine bị chuyển hoá bởi cả
những tế bào nhiễm và không nhiễm thành dẫn xuất triphosphate (TP), đây là dạng
hoạt động của hợp chất gốc. Thời gian bán huỷ nội tế bào của triphosphate trong
tế bào gan là 17-19 giờ in vitro. Lamivudine -TP đóng vai trò như chất nền cho
polymerase của virus HBV. Sự hình tành tiếp theo của DNA của virus bị chặn lại
do sự sát nhập lamivudine-TP vào chuỗi và dẫn tới kết thúc chuỗi.
Lamivudine-TP không can thiệp
vào chuyển hoá deoxynucleotide ở tế bào bình thường. Nó chỉ là yếu tố ức chế
yếu polymerase DNA alpha và beta của động vật có vú. Và như vậy, Lamivudine-TP
có ít tác dụng tới thành phần DNA tế bào của động vật có vú.
Trong thử nghiệm về khả năng
thuốc tác dụng tới cấu trúc ty lạp thể, thành phần và chức năng DNA, lamivudine
không có tác dụng gây độc đáng kể. Thuốc chỉ có khả năng rất thấp làm giảm
thành phần DNA, không sát nhập vĩnh viễn vào DNA ty lạp thể, và không đóng vai
trò ức chế polymerase DNA gamma của ty lạp thể.
Kinh nghiệm
lâm sàng
In vivi Zeffix có tác dụng
chống virus mạnh, nhanh chóng ức chế sao chép của HBV sau khi bắt đầu điều trị.
Trong các nghiên cứu lâm sàng, khi cho bệnh nhân viêm gan B mãn tính uống
Zeffix trong thời gian cho tới hai năm, thấy rằng thuốc ức chế liên tục HBV,
làm bình thường hoá nồng độ aminotransferase huyết thanh, giảm đáng kể quá
trình viêm hoại tử gan, giảm tiến triển xơ và tăng tỷ lệ đảo ngược huyết thanh
HBeAg so với nhóm placebo; tác dụng của thuốc tương tự nhau giữa các bệnh nhân
thuộc các dân tộc khác nhau. Hiệu quả của Zeffix đối với bệnh nhân nhiễm HBV có
đột biến trước nhân tương tự với nhóm nhiễm HBV thể hoang dại.
Ở những bệnh nhân không đạt
được đảo ngược huyết thanh HBeAg trong quá trình điều trị, khi ngừng Zeffix sẽ
làm HBV sao chép trở lại với cả hai thông số HBV DNA và aminotransferases trở
về giá trị trước điều trị trong vòng 2-6 tháng.
Ở những bệnh nhân bị bệnh gan
mất bù do viêm gan B mãn tính, cho uống Zeffix trước, trong và sau khi ghép gan
nhằm ức chế HBV đang tồn tại hoặc phòng khả năng tái phát. Ðã chứng minh được
rằng Zeffix ức chế HBV và làm bình thường hoá aminotransferase huyết thanh ở
những bệnh nhân này.
Những nghiên cứu về đơn trị
liệu bằng Zeffix so sánh alpha-iterferon dùng đơn độc hoặc kết hợp để điều trị
bệnh nhân viêm gan B mãn tính, cho thấy không có sự khác nhau đáng kể thể hiện
ở đáp ứng mô học hoặc tỷ lệ đảo ngược huyết thanh HBeAg giữa các nhóm điều trị.
Zeffix an toàn hơn hẳn so với chế độ điều trị có chứa alpha interferon.
Không có tài liệu lâm sàng về
hiệu quả của Zeffix ở bệnh nhan dưới 16 tuổi hoặc bệnh nhân đồng thời bị viêm
gan Delta.
Cũng đã xác định được những
phân nhóm virus HBV mà tính nhạy cảm với lamivudine in vitro giảm đi. Những
biến thể HBV này (HBV đột biến UMDD) cũng được phát hiện ở bệnh nhân viêm gan B
mà có sự quay trở lại của HBV DNA huyết thanh ở mức có thể phát hiện được trong
thời gian điều trị Zeffix. Ðột biến YMDD của HBV cũng được phát hiện ở một tỷ
lệ nhỏ bệnh nhân viêm gan mãn tính, không kèm theo bệnh gan mất bù, được điều
trị bằng Zeffix 100mg một lần/ngày trong 52 tuần. Bệnh nhân bị ức chế miễn dịch
có tỷ lệ đột biến YMDD HBV cao hơn trong khi điều trị viêm ganB tái phát sau
ghép gan.
Mặc dù có sự xuất hiện của biến
thể YMDD HBV, bệnh nhân được điều trị trong 1 năm có nồng độ HBV DNA và ALT
thấp hơn đáng kể, mô học gan cũng cải thiện đáng kể so với bệnh nhân nhóm
placebo. Sau hai năm điều trị Zeffix, bệnh nhân có biến thể YMDD HBV vẫn duy
trì được nồng độ HBV DNA và ALT thấp hơn giá trị trước điều trị. Mô hình tác
dụng phụ tương tự nhau giữa hai nhóm có và không có thể YMDD HBV.
Sau khi xuất hiện biến thể YMDD
HBV, nếu ngừng Zeffix sẽ làm xuất hiện HBV thể hoang dại, thể này nhạy cảm với Zeffix
(xem phần Chú ý và Thận trọng đặc biệt khi sử dụng). Do đó, mặc dù có biến thể
YMDD, việc tiếp tục điều trị bằng Zeffix sẽ ức chế phần HBV thể hoang dại còn
lại và có thể tiếp tục giúp ích cho những bệnh nhân này. Biến thể YMDD HBV có
vẻ như ít sao chép hơn trên in vitro và do đó có thể độc hại ít hơn so với HBV
thể hoang dại.
Ðặc điểm dược
động học:
Hấp thu:
Lamivudine được hấp thu tốt từ
hệ tiêu hoá, sinh khả dụng của lamivudine khi uống ở người lớn thường là từ
80-85%. Sau khi uống, thời gian trung bình (tmax) để đạt được nồng độ tối da
trong huyết thanh (Cmax) là khoảng 1 giờ. Ở liều điều trị, nghĩa là 100mg, một
lần/ngày. Cmax là 1.1-1.5 g/ml và nồng độ ổn định là 0.015-0.020 g/ml.
Khi uống lamivudine cùng với
thức ăn, kết quả là làm kéo dài tmax và làm giảm Cmax xuống (giảm tới 47%). Tuy
nhiên, mức độ (dựa trên AUC) hấp thu lamivudine không bị ảnh hưởng, do đó
Zeffix có thể uống cùng thức ăn hoặc không.
Phân bố:
Trong các nghiên cứu về thuốc
tiêm tính mạch, thể tích phân bố trung bình là 1.31kg. Lamivudine có dược động
học hình đường thẳng trong khoảng liều điều trị và cho thấy sự kết hợp với
protein huyết tương thấp đối với albumin.
Số liệu, tuy còn hạn chế, cho
thấy lamivudine vào được hệ thần kinh trung ương và tới được dịch não tuỷ. Tỷ suất
nồng độ lamivudine dịch não tuỷ / huyết thanh trong bình 2-4 giờ sau khi uống
là khoảng 0.12.
Chuyển hoá:
Lamivudine thải trừ chủ yếu qua
thận dưới dạng không đổi. Khả năng tương tác thuốc chuyển hoá với lamivudine
thấp do chuyể hoá qua gan thấp (5-10%) và gắn với protein huyết tương thấp.
Thải trừ:
Thanh thải toàn thân trng bình
của lamivudine là khoảng 0.3l/giờ/kg. Thời gian bán thải quan sát được là 5-7
giờ. Phần lớn lamivudine thải trừ ở dạng không đổi qua nước tiểu thông qua lọc
cầu thận và bài tiết tích cực (hệ thống vận chuyển cation hữu cơ). Thanh thải
qua thận chiếm khoảng 70% thải trừ của lamivudine.
Những quần thể
đặc biệt:
Những nghiên cứu ở bệnh nhân
suy thận cho thấy thải trừ lamivudine bị ảnh hưởng bởi chức năng thận. Cần phải
giảm liều nếu thanh thải creatinine < 50ml/phút (xem phần liều dùng và
phương pháp dùng).
Một nghiên cứu tiến hành trên
bệnh nhân suy gan (không nhiễm HIV và HBV) cho thấy lamivudine được dung nạp
tốt ở nhóm bệnh nhân này, không thấy có thay đổi thông số xét nghiệm hoặc tác
dụng phụ của lamivudine. Dược động học của lamivudine không bị ảnh hưởng bởi
tính trạng suy gan. Số liệu thu được ở những bệnh nhân được ghep gan, tuy còn
hạn chế, những cũng thấy tình trạng suy chức năng gan ảnh hưởng không đáng kể
tới dược động học của lamivudine nếu như không có mất chức năng thận kèm theo.
Ở bệnh nhân lớn tuổi, mô hình
dược động học của lamivudine cho thấy quá trình lão hoá bình thường đi kèm giảm
chức năng thận không có ảnh hưởng đáng kể đến lâm sàng tới mức độ tiếp xúc
lamivudine, trừ trường hợp bệnh nhân có thanh thải creatine < 50ml/phút (xem
phần liều và cách dùng).
Sau khi uống, dược động học của
lamivudine ở phụ nữ mang thai thời kỳ cuối tương tự như ở người không mang
thai.
Thận trong đặc
biệt khi bảo quản:
Bảo quản dưới 30oC
Zeffix là nhãn hiệu thương mại
của Glaxo Wellcome Group ò companies.
GlaxoWellcome
Sản xuất bởi Glaxo Wellcome
Operations
Priory street, Ware, Hertifordside, SG12
0DJ, UK.
Copyright
© 2005 Dr. Phạm Thị Thu Thủy - Khoa gan - Trung tâm Y khoa Tp. Hồ Chí Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét